GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ MẪU DẤU VKA 2019

GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ MẪU DẤU VKA 2019

Quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức

Quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức mới nhất. Hình thức xử lý đối với tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức.

Làm giả con dấu, làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức đang là vấn đề nóng trong xã hội hiện nay. Tội phạm làm giả con dấu, giấy tờ để thực hiện trục lợ bất chính và hoạt động phạm tội của nhóm tội phạm này ngày càng trở nên tinh vi và thủ đoạn hơn, dẫn đến không ít người dân bị lừa và phải chịu thiệt thòi từ hành vi này. Vậy pháp luật hiện nay quy định về tội làm giả con dấu, giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức là như thế nào? Luật Dương Gia xin gửi đến bạn bài viết về Quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức như sau:

Thứ nhất về cấu thành tội Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong Bộ luật hình sự.

Tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức hiện nay được quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. So với quy định trước đó trong Bộ luật hình sự năm 1999, tên điều luật đã được bổ sung cụ thể thành “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Như vậy tên điều luật đã diễn giải cụ thể và rõ ràng hơn về hành vi của tội phạm này. Về cấu thành tội phạm của tội này được hiểu như sau:

Về khách thể của tội phạm:

Đối tượng tác động của tội này là: con dấu giả, giấy tờ giả, tài liệu giả.

Đối tượng bị xâm phạm là hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước, cụ thể là là về con dấu, giấy tờ, tài liệu khác.

Con dấu, giấy tờ tài liệu là đặc trưng của cơ quan tổ chức, được dùng để khẳng định giá trị pháp lý đối với những văn bản, giấy tờ này. Do vậy làm con dấu, giấy tờ, tài liệu giả chính là xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà nước về con dấu và các loại tài liệu, giấy tờ này.

Về chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội làm giả con dấu là chủ thể thường chứ không yêu cầu là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ cần là người đủ tuổi, đủ năng lực trách nhiệm hình sự mà thực hiện hành vi phạm tội thì đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

Nếu trong trường hợp người phạm tội là người có chức vụ quyền hạn mà có hành vi làm giả con dấu, chẳng hạn như là lén lút đưa con dấu, giấy tờ của tổ chức mình cho người khác làm giả thì sẽ coi là tình tiết tăng nặng lạm dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội.

Người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự với tội làm giả con dấu, giấy tờ của cơ quan tổ chức là từ đủ 16 tuổi trở lên.

Về mặt khách quan của tội phạm.

+ Về hành vi khách quan: tội phạm phạm tội làm giả con dấu, giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức có hai hành vi sau:

– Hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ của cơ quan, tổ chức:

Về bản chất thì không có thật thì sẽ không có giả, do vậy con dấu, giấy tờ, tài liệu bị làm giả phải là con dấu, giấy tờ, tài liệu có thật của cơ quan, tổ chức, và cơ quan, tổ chức đó cũng phải là cơ quan, tổ chức có thật. Nếu làm con dấu, giấy tờ giả của một cơ quan tổ chức không hề có thật thì đây sẽ coi là hành vi lừa đảo chứ không phải làm giả con dấu, giấy tờ, tài liệu.

Ví dụ: A và B cùng bàn nhau tạo ra một công ty không có thật, chuyên mua bán các loại nông sản từ người nông dân, A và B dùng danh nghĩa công ty này để ký kết hợp đồng mua bán và có đóng dấu của công ty, sau đó nợ tiền và không trả tiền nông sản cho người nông dân. Hành vi làm giả con dấu, giấy tờ của công ty không có thật này của A và B không coi là tội làm giả giấy tờ, con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức mà là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do trên thực tế cũng không có công ty này tồn tại.

– Hành vi sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ giả nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân.

Nếu người phạm tội mà chỉ làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức mà việc làm giả này không phải vi mục đích lừa dối người khác thì cũng không thể coi là phạm tội làm giả con dấu, giấy tờ của cơ quan, tổ chức được. Con dấu, giấy tờ tài liệu giả có thể được sử dụng vào nhiều mục đích, chẳng hạn như dùng bằng đại học giả để đi xin việc, để được hưởng mức lương cao hơn; dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để mua bán đất; sử dụng sổ hộ khẩu giả để được giao đất trồng lúa, đất trồng rừng, mua xe ô tô trong thành phố,…

Khi xác định về hành vi, nếu người đó chỉ làm giả con dấu thì sẽ xác định là làm “giả con dấu của cơ quan, tổ chức”, nếu người đó làm giả giấy tờ, tài liệu thì sẽ là “làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” chứ không định tội danh đầy đủ như điều luật quy định.

+ Về hậu quả:

Hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội này. Chỉ cần người nào có hành vi làm giả con dấu, giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng con dấu, giấy tờ tài liệu đó để lừa dối người khác nhằm đạt được mục đích bất hợp pháp của mình thì đều có thể bị truy cứu về tội này. Nếu việc phạm tội gây hậu quả thực tế thì đây sẽ được coi là tình tiết định khung hình phạt.

Hậu quả của tội làm giả giấy tờ, tài liệu, con dấu của cơ quan tổ chức là làm ảnh hưởng về tài sản của công dân, và của cả nhà nước; Gây rối loạn việc quản lý hành chính Nhà nước về quản lý giấy tờ tài, tài liệu; Gây hoang mang cho người dân khi tham gia vào các giao dịch của mình…

Về mặt chủ quan của tội phạm.

Tội làm giả con dấu, giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức được thực hiện dưới lỗi cố ý, người phạm tội biết rõ con dấu, giấy tờ, tài liệu này là giả nhưng vẫn sử dụng chúng để thực hiện hành vi lừa dối người khác để trục lợi.

Động cơ của việc phạm tội cũng không phải là yếu tố bắt buộc, tuy nhiên việc xác định động cơ cũng là điều hết sức quan trọng do nếu người phạm tội thực hiện việc làm giả con dấu, giấy tờ vì lợi ích vật chất hoặc vì động cơ đê hèn khác thì sẽ khác với người làm giả con dấu, giấy tờ giả vì mục đích thành tích, chẳng hạn như là làm giả giấy khen để khoe khoang thì sẽ khác làm giả giấy khen để được ưu tiên khi đi xin học bổng, xin đi du học nước ngoài…

Thứ hai, mức phạt đối với hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Mức phạt của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức được quy định cụ thể tại Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:

– Phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc tù từ 06 tháng đến 02 năm đối với trường hợp: người phạm tội thực hiện hành vi làm giả con dấu, giấy tờ của cơ quan tổ chức; sử dụng con dấu, giấy tờ, tài liệu giả đó để lừa dối công dân, cơ quan, tổ chức.

– Phạt tù từ 02 đến 05 năm đối với trường hợp:

+ Phạm tội có tổ chức: đây là trường hợp có một nhóm (ít nhất hai người trở lên) trong đó những người này có lên kế hoạch và có phân công nhau để thực hiện phạm tội.

+ Đã có hai lần phạm tội trở lên.

+ Là trường hợp tái phạm nguy hiểm.

+ Số lượng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác mà tội phạm làm giả là từ 02-05 món.

+ Số tiền thu lợi bất chính là từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng.

+ Sử dụng con dấu, giấy tờ tài liệu giả để thực hiện một tội phạm khác mà tội này là tội phạm ít nghiêm trọng, hoặc nghiêm trọng.

– Phạt tù từ 03 đến 07 năm đối với trường hợp:

+ Số lượng con dấu, tài liệu giấy tờ bị làm giả là từ 06 trở lên.

+ Số tiền mà tội phạm chiếm đoạt từ việc phạm tội một cách bất chính là từ 50 triệu đồng trở lên.

+ Sử dụng con dấu, giấy tờ tài liệu giả để thực hiện một tội phạm khác mà tội này là tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền với số tiền từ 05 triệu đồng đến tối đa 50 triệu đồng tùy theo mức độ phạm tội.

kimquy
nhtruong969@gmail.com